Sunday, June 08, 2008


L'albatros. Hải Âu

Souvent, pour s'amuser, les hommes d'équipage
Prennent des albatros, vastes oiseaux des mers,
Qui suivent, indolents compagnons de voyage,
Le navire glissant sur les gouffres amers.

A peine les ont-ils déposés sur les planches,
Que ces rois de l'azur, maladroits et honteux,
Laissent piteusement leurs grandes ailes blanches
Comme des avirons traîner à côté d'eux.

Ce voyageur ailé, comme il est gauche et veule!
Lui, naguère si beau, qu'il est comique et laid!
L'un agace son bec avec un brûle-gueule,
L'autre mime, en boitant, l'infirme qui volait!

Le Poète est semblable au prince des nuées
Qui hante la tempête et se rit de l'archer;
Exilé sur le sol au milieu des huées,
Ses ailes de géant l'empêchent de marcher.

Charles Baudelaire (Les fleurs du mal)

Để đuà chơi, nhiều khi thủy-thủ
Bắt Hải-Âu, chim của Trùng-Dương.
Lững lờ, bát ngát cánh dương,
Theo thuyền, lướt sóng như đương hộ thuyền.

Vưà mới để lên trên sàn gỗ,
"Vua trời xanh" nghiêng đổ, nặng nề.
Cánh dài trắng bỏ lê -thê,
Như chèo buông xõng trăm bề thảm thương.

Đại dực khách! Khi thường đẹp thế!
Nay tội chưa! xấu xí, vụng về!
Điêu, người chọc mỏ ê-chề,
Kẻ đi lặc, diễu thân què, xưa bay!


Thi-Sĩ như "Trời Mây Hoàng Đế ",
Xá chi cung, quen rẽ bao trời.
Trần-gian đầy đọa ngạo cười,
Cánh bằng lớn quá, đường đời khôn đi.

16/9/53

X.V.(thơ dịch)


26223108_4f2e85d147.jpg

nz albatros - photo courtesy of s_st , flickr.com

Publié par rds à 09:28 PM

Friday, June 06, 2008

novembre 09, 2005

Rencontres fortuites. Tao phùng

"A mes lecteurs,

" Des Rencontres fortuites dans 100 ans ? "

La vie humaine est une aventure fantastique.lbd,spaces,details,.jpg Un jour, de poussière nous retournerons en poussière (*). Dans notre courte vie, combien de fois avons nous eu des occasions de rencontres inouïes ? Les Tourmentes de l’Actualité, les Joies ou les Peines des Anciens, ou celles incommensurables du Ciel et de la Terre, tout se condense dans les Poèmes; nous avons l’impression de nous retrouver dans un endroit universel, au-delà du Temps et de l’Espace.

Je note ici, dans mon recueil, mes impressions ainsi que les joies et peines - traduites par mes soins, de certaines "Constellations" que j’ai pu rencontrer lors de ces "Rendez-vous " .

Saigon, le 30 Sept 1954

Xuân Việt (1914?- 1990)"

(Préface du recueil " Tao Phùng ")

photo: Espaces ( détails). LBD

"Cùng bạn đọc

Trăm năm một cuộc tao phùng”

Kiếp người là một cuộc viễn du kỳ ảo. " Sinh ký tử quy (*) , chẳng qua rồi cũng ba tấc đất. Song thời gian ngắn ngủi là đời ta, có duyên được bao nhiêu cuộc gặp gỡ lạ lùng. Nỗi vui buồn của cổ nhân, lòng thắc mắc về thế sự, niềm hân hoan vô lượng của càn khôn, đều kết trong những bài thơ ; ta tưởng như cùng gặp nhau trong một cuộc tao phùng to lớn ở ngoài thời gian và không gian vậy.

Nay chép lại đây nỗi cảm giác của mình và cùng dịch theo đây nỗi vui buồn của ít nhiều tinh hoa đã gặp trong cuộc tao-phùng này.

Sàigòn, ngày 30 tháng 9 d.l. 1954

X.V. "

(Bài tựa tập thơ Tao Phùng)

Dans le poème ci-dessous, l'auteur X.V. rend hommage au poète national Nguyễn Du (Tiên Điền), dont il a traduit les oeuvres, et dédie à son aîné ces quelques vers:
"...où et à qui pourrais-je confier mon coeur?"

http://evene.fr/celebre/biographie/nguyen-du-2059.php


« Trăm năm một cuộc tao-phùng »
Đau thương biết gửi tấm lòng về đâu.

Vẻ chi chép lại mấy câu,
Tinh-hoa, âu cũng trước sau đồng thuyền.
Hậu sinh ai khóc Tiên Điền,
Tài hoa chung gánh một thiên hận sầu.
Tái sinh mong mỏi gì đâu,
Nhớ thương muôn kiếp, hẹn nhau mấy vần.
Bụi tro trả lại chiếc thân,
Hồn thơ họa góp một phần đau chung.

« Trăm năm một cuộc tao-phùng »,
Nghìn năm biết gửi tấm lòng cho ai.

Mots sino-vietnamiens:
(*) L'_expression "Sinh Ky' Tử Quy" est issue d'un texte chinois ancien 淮南子 Hoài Nam Tử =
,寄也;,歸也。 Sinh, ki' dã; tử, quy dã.

Elle est entrée dans la croyance populaire voire religieuse au Vietnam avec la signification suivante :
Vivre, c'est demeurer provisoirement sur terre, Mourir, c'est le retour à sa source (Sống gửi, thác về).
http://perso.wanadoo.fr/dang.tk/langues/menu.htm

xuân viêt , blog tiêng viêt

Publié par rds à 05:47 PM

août 03, 2005

Années 30-40

02082005 025.jpgIMGP3820.JPG

Recueil de poèmes
View image View image

View image

Publié par rds à 03:21 PM

mai 10, 2005

Vết thương lòng.Blessures .

Trời xanh thăm thẳm một mầu,
Lòng ta một vết thương đau không cùng.
Tháng ngày rộn rịp tưng bừng,
Lòng đau, lòng vẫn khăng khăng mong chờ.

Non sông mờ chuếnh choáng,
Ta đứng vững không lay.
Ta sống để đợi ngà
y,
Non sông kia sáng lạng.


Chim trời phải đạn,
Vẫn ráng cánh bay.
Dậm khơi muôn vạn,
Lòng chim vẫn say.

Ta không lo ta chết,
Ta chỉ lo đời hết,
Mà ta chả được trông,
Rực rỡ giống Lạc-Hồng.

Ôi nếu trời bắt
Phải chịu cơ cực.
Ta chết không nhắm mắt,
Trong mồ ta vẫn khóc.

Non sông, ta vẫn tin rằng,
Một ngày sẽ đến cánh bằng vượt khơi.
Việt Nam sẽ đứng với người,
Lòng ta tin ở giống nòi Việt Nam.

Xuân Việt

Un poème des années 1950. Malgré ses souffrances , l'auteur a confiance en l'avenir du peuple vietnamien, tel un aigle déployant ses ailes au dessus de l'océan.

Publié par rds à 10:14 AM

mars 31, 2005

Trầm lặng. Recueillement (1861)


b_recueill.jpg

Sois sage, ô ma Douleur, et tiens-toi plus tranquille.
Tu réclamais le Soir ; il descend ; le voici :
Une atmosphère obscure enveloppe la ville,
Aux uns portant la paix, aux autres le souci.

Pendant que des mortels la multitude vile,
Sous le fouet du Plaisir, ce bourreau sans merci,
Va cueillir des remords dans la fête servile,
Ma Douleur, donne-moi la main ; viens par ici,

Loin d’eux. Vois se pencher les défuntes Années,
Sur les balcons du ciel, en robes surannées ;
Surgir du fond des eaux le Regret souriant ;

Le Soleil moribond s’endormir sous une arche,
Et, comme un long linceul traînant à l’Orient,
Entends, ma chère, entends la douce Nuit qui marche.


Baudelaire (1821-1867)


Hãy ngoan Em! Hỡi Em Đau Đớn!
Em mong chiều, chiều đến đây kia.
Thị thành khói phủ sương che,
Lòng vui thanh thản lòng se lo buồn.

Giờ, phàm nhân một phường nhơ nhớp,
Tìm thú vui, dao cắt sương da.
Yến diên đón lấy ngã sa,
Em Đau ! Hãy dắt tay qua chốn này.

Tránh xa họ - Kià bầy năm cũ,
Bận áo xưa , đứng tựa can trời.
Tinh qua bỗng dậy ngậm ngùi,
Bồng bềnh mặt nước nực cười thương đau.

Dưới vòm cầu vừng dương đắm đuối,
Nhìn! Em ơi! Hấp hối lá dương.
Phương Đông tha thiết màn tang,
Lắng nghe từng bước mênh mang đêm về.

Xuân Việt (dịch bài Recueillement của Baudelaire) .
Tác giả nhân cách hoá nỗi Đau.

Publié par rds à 09:30 AM

mars 29, 2005

Lạc vườn.Je me suis égaré dans ce jardin.

2803200_magnolia.jpg

Từ thuở nhỏ theo đòi âu-học
Vườn phương xa đã nhọc công tìm.
Bước vào , hoa gió lá chim,
Cũng vui, cũng đẹp, êm đềm du dương.

Sao ta vẫn một thương hai nhớ.
Trong cảnh người rục rỡ xiết bao,
Tâm hồn long gốc lao -đao,
Trơ vơ ta đứng, nghẹn ngào lòng quê.

Đang bâng khuâng, ê -chề mệt mỏi,
Bỗng thiết tha tiếng gọi trên không.
Về đây con! Gió lạnh lùng,
Sương chiều xuống nặng, mẹ mong ! Con về!

Giật mình thót, giấc mê vưà tỉnh,
Nhìn chung quanh, vườn cảnh huy hoàng.
Quyết lòng ta rứt tơ vương,
Mà theo tiếng gọi mẹ đương đợi chờ.

Nay trở lại vườn thơ đất nước,
Giưã muôn hoa, suối nước tràn tuôn.
Say sưa hồn tắm nguyên nguồn,
Đem về đôi chút mùi hương phương trời.

Xuân Việt.

Trích tập thơ "So tơ ", in ngày 24-06-1949
Nhà xuất bản Người Việt, Hà Nội.

Le poète, ayant suivi l'enseignement français au Lycée Albert Sarraut à Hanoï (1931), est heureux de connaître le jardin poétique à l'occidentale, mais se sent déraciné. Avec comme bagage l'essence universelle , il décide de revenir aux sources .

Photo Magnolia - 032005

Publié par rds à 03:40 PM

mars 14, 2005

Cham Towers

Tháp chàm

Xa xa nổi bóng Tháp chuà Chàm
Một trái thông nâu giữa núi Lam
Dấu tích dân Hời còn khóc đó
Bâng khuâng ngẩng mặt hỏi trời Nam.

Xuân Việt

Trích tập thơ "So tơ "(1940-1942)
Le poète exprime ici sa mélancolie devant les vestiges du peuple Champa.

Cham Towers and Clouds- Photo jacobread on flickr

Publié par rds à 11:06 PM

mars 01, 2005

Nửa đêm chợt tỉnh


Nửa đêm chợt tỉnh dâng dâng lệ
Nào biết vì ai đã phũ phàng.
Thơ yếu mang sao lời ước thệ!
Lỗi nguyền thôi để mình anh mang.
Canh khuya đất khách lòng đau đớn,
Thương nước pha thêm nỗi nhớ em.
Ta muốn quên đi vì nghiã lớn
Mặt ai bừng nổi giữa trời đêm.

Hồng Kông (04.07.48, 2 giờ đêm)
Xuân Việt.

Tên thật là Nghiêm Xuân Việt.
Tác giả nhiều tập thơ: "So tơ ", "Tao phùng", .. Ông đã dịch Truyền kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ. Bản Truyện Kiều của ông và ông Xuân Phúc (Paul Schneider) cùng dịch đã được nhà xuất bản Gallimard in lại nhiều lần.

Souffrances .

Ce poème a été composé en 1948, pendant l'exil temporaire de l'auteur en Chine. Il se rappelle son épouse laissée au pays et son serment envers sa patrie.
Xuân -Việt , un poète d'avant -guerre, a traduit "Histoires merveilleuses" de Nguyễn Dữ (16e siècle) et "Histoire de Kiều " avec Paul Schneider (Xuân Phúc), plusieurs fois réédité chez Gallimard.



Publié par rds à 02:27 PM